Phát triển lý luận của Đảng về bảo vệ Tổ quốc đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong kỷ nguyên mới
Báo Nhân Dân trân trọng giới thiệu bài viết của Đại tá, Tiến sĩ Đỗ Văn Hoan, Nguyên Phó Cục trưởng Cục Khoa học, Chiến lược và Lịch sử Công an, được trích trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học cấp quốc gia: "Sự phát triển của Việt Nam trong kỷ nguyên mới và những vấn đề đặt ra đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc - Lý luận và thực tiễn".

Trong suốt quá trình hoạt động của mình, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh luôn coi trọng công tác nghiên cứu, phát triển lý luận phục vụ sự nghiệp cách mạng, trong đó có lý luận về bảo vệ Tổ quốc. Ngay từ năm 1927, khi xuất bản cuốn Đường cách mệnh, Người đã trích câu nói của Lênin trên trang bìa: “Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách mệnh vận động. Chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiền phong”(1).
Quán triệt tư tưởng của Người, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hình thành, phát triển hệ thống lý luận phong phú, toàn diện, trong đó lý luận bảo vệ Tổ quốc là một trong những bộ phận chủ yếu, đồng thời là một trong những yếu tố quan trọng góp phần vào thắng lợi vĩ đại của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN).
Hiện nay, đất nước ta đang bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc cũng đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ mới đòi hỏi công tác nghiên cứu, phát triển lý luận cần phát triển lên tầm cao mới.

Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách mệnh vận động. Chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiền phong.
Hồ Chí Minh
1. Thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin và qua nghiên cứu thực tiễn các cuộc cách mạng trên thế giới cũng như các cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp ở trong nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã rút ra những bài học quý giá cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc ở Việt Nam. Theo Người, cách mạng Việt Nam cần có một chính đảng của giai cấp công nhân, huy động khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đánh đuổi thực dân, chấm dứt chế độ phong kiến, lập nên một chính quyền phục vụ lợi ích của toàn thể nhân dân. Ngày 3/2/1930, Người chủ trì Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại Hội nghị, Đảng ta đề ra Chính cương, sách lược vắn tắt, trong đó nêu rõ các định hướng cơ bản của Đảng, đó là: “a. Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. b. Làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập. c. Dựng ra chính phủ công nông binh. d. Tổ chức ra quân đội công nông” (2).
.jpg)
Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, nhưng thực dân Pháp một lần nữa thực hiện âm mưu xâm lược nước ta. Ngày 18 và 19/12/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp Hội nghị ban hành quyết định lịch sử: phát động toàn quốc kháng chiến. Ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, trong đó thể hiện quyết tâm của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta: “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Trong bối cảnh cuộc Kháng chiến chống Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta vẫn luôn coi trọng công tác nghiên cứu lý luận về đường lối cách mạng Việt Nam, trong đó có lý luận bảo vệ Tổ quốc.
Năm 1949, Đảng thành lập Trường Đảng Trung ương Nguyễn Ái Quốc (nay là Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh) nhằm nghiên cứu, tuyên truyền, đào tạo cán bộ lý luận của Đảng. Đồng thời, để tăng cường công tác nghiên cứu lý luận, năm 1965, Đảng thành lập Ban Nghiên cứu lý luận. Năm 1992, Ban được đổi tên thành Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời được sáp nhập vào Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Trải qua hơn 75 năm xây dựng và trưởng thành, hiện nay Học viện đã trở thành một trung tâm nghiên cứu lý luận hàng đầu của Đảng, góp phần quan trọng cung cấp luận cứ khoa học phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Năm 1991, Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu sụp đổ, vấn đề nghiên cứu lý luận về CNXH, trong đó có lý luận về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN được đặt ra cấp bách. Năm 1996, Đảng ta thành lập Hội đồng Lý luận Trung ương. Trong cơ cấu tổ chức của Hội đồng có Tiểu ban Lý luận về quốc phòng, an ninh, đối ngoại có nhiệm vụ nghiên cứu chuyên sâu về lý luận bảo vệ Tổ quốc. Ngoài ra, các viện nghiên cứu, cơ sở đào tạo của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an cũng tăng cường công tác nghiên cứu lý luận về bảo vệ Tổ quốc.
Năm 1949, Đảng thành lập Trường Đảng Trung ương Nguyễn Ái Quốc (nay là Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh) nhằm nghiên cứu, tuyên truyền, đào tạo cán bộ lý luận của Đảng.
Cùng với việc thành lập, kiện toàn các cơ quan nghiên cứu lý luận, Đảng ta luôn quan tâm chỉ đạo công tác nghiên cứu lý luận trong toàn hệ thống chính trị. Năm 1991, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta ban hành Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên CNXH. Đồng thời, để tiếp tục làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, ngày 18/3/1992, Đảng ta ban hành Nghị quyết số 01-NQ/TW “Về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay”. Năm 2011, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta bổ sung, phát triển Cương lĩnh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Năm 2014, trên cơ sở tổng kết Nghị quyết số 01-NQ/TW nêu trên, Đảng ban hành Nghị quyết số 37 “Về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030”. Ngoài ra, trong các kỳ đại hội, Đảng đều đề ra phương hướng, nhiệm vụ nghiên cứu lý luận về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Để góp phần nghiên cứu, phát triển lý luận, Đảng ta luôn coi trọng công tác tổng kết thực tiễn nhằm rút ra bài học kinh nghiệm từ thực tiễn sinh động của sư nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngoài việc tổng kết kinh nghiệm hằng năm, Đảng ta còn tổng kết theo những giai đoạn, như: tổng kết những vấn đề lý luận và thực tiễn sau 30 năm, 40 năm đổi mới đất nước; tổng kết 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ lên CNXH, v.v… Những bài học kinh nghiệm rút ra từ các cuộc tổng kết vừa giúp cho Đảng ta kịp thời đề ra chủ trương, đường lối phù hợp với thực tiễn, vừa góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận của Đảng về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Sau 95 năm thành lập và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã xây dựng, phát triển hệ thống lý luận phong phú, tương đối hoàn chỉnh, góp phần quan trọng vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Đặc biệt là trong 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, nhận thức lý luận của Đảng về bảo vệ Tổ quốc ngày càng hoàn thiện, cụ thể bao gồm những vấn đề sau (3):
Về mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, đó là bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; bảo vệ thành quả của cách mạng, bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá; bảo vệ nền văn hóa, uy tín, vị thế quốc tế của đất nước; bảo vệ an ninh quốc gia (ANQG), an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; triệt tiêu các nhân tố mất ổn định từ bên trong, kiên quyết không để hình thành tổ chức chính trị đối lập ở trong nước; dập tắt nguy cơ xung đột quân sự, chiến tranh; giữ vững, củng cố, tăng cường môi trường hòa bình để xây dựng đất nước; đóng góp tích cực vào gìn giữ hòa bình khu vực, thế giới.
Về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, đây là hai nhiệm vụ có mối quan hệ biện chứng với nhau, không thể tách rời. Trong khi đặt lên nhiệm vụ hàng đầu là xây dựng đất nước, phải đồng thời coi trọng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, có bảo vệ tốt mới tạo được điều kiện thuận lợi xây dựng đất nước. Trên cơ sở đó, Đảng ta chủ trương cụ thể hóa và thực hiện có hiệu quả quan hệ giữa hai nhiệm vụ này trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, trên từng địa bàn, trong từng nhiệm vụ, từng chương trình, kế hoạch cụ thể.
Về sức mạnh, lực lượng bảo vệ Tổ quốc, sức mạnh bảo vệ Tổ quốc khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; sức mạnh tổng hợp về chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, sức mạnh của cả hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước, sự đồng lòng, thống nhất về quyết tâm và ý chí của toàn dân. Lực lượng bảo vệ Tổ quốc là toàn dân, cả hệ thống chính trị, trong đó Quân đội nhân dân (QĐND) và Công an nhân dân (CAND) là nòng cốt.
Để góp phần nghiên cứu, phát triển lý luận, Đảng ta luôn coi trọng công tác tổng kết thực tiễn nhằm rút ra bài học kinh nghiệm từ thực tiễn sinh động của sư nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Về phương thức bảo vệ Tổ quốc, sử dụng tổng hợp và kết hợp chặt chẽ đấu tranh vũ trang và đấu tranh phi vũ trang, kết hợp giữa bảo vệ với xây dựng, lấy xây dựng để bảo vệ, đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” và phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ, phát triển quan điểm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy, quan điểm “tự bảo vệ” trong điều kiện mới, đấu tranh phi vũ trang ngày càng được coi trọng.
Về đối tác, đối tượng, Đảng ta có sự phát triển đột phá về nhận thức, theo đó những ai tôn trọng lợi ích quốc gia-dân tộc, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi, cùng phát triển với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào có âm mưu, hành động chống phá sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của ta đều là đối tượng. Trong mỗi đối tác có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích quốc gia - dân tộc cần phải đấu tranh; trong mỗi đối tượng có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác, thuyết phục.
Về an ninh quốc gia và bảo vệ an ninh quốc gia, từ nhận thức an ninh quốc gia chủ yếu là vấn đề nội bộ đến an ninh tổng hợp, toàn diện, bao gồm: an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh văn hóa - tư tưởng, an ninh thông tin, an ninh trên lĩnh vực tôn giáo, dân tộc, an ninh nông thôn, đô thị và các vùng chiến lược. Nhận thức về mục tiêu, nhiệm vụ, phạm vi bảo vệ an ninh quốc gia cũng ngày càng toàn diện hơn. Trên cơ sở đó, lý luận khoa học an ninh phục vụ bảo vệ an ninh quốc gia ngày càng hoàn thiện.

Về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, trong mọi điều kiện, tình huống, trên mọi địa bàn, sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và các lực lượng nòng cốt phải đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng. Đảng lãnh đạo sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc bằng cương lĩnh, đường lối, chiến lược. Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang tập trung thống nhất vào Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, thông qua tổ chức đảng, hệ thống tổ chức chỉ huy, hệ thống cơ quan chính trị, cán bộ chính trị các cấp và tổ chức quần chúng ở đơn vị cơ sở, trong QĐND và CAND.
Về bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy, nhận thức này được thể hiện trên nhiều phương diện. Về mục tiêu, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, phát triển, không để đất nước bị động, bất ngờ trong mọi tình huống; không để đất nước xảy ra chiến tranh, xung đột. Về tư tưởng chỉ đạo, đề cao tính tích cực, chủ động, kết hợp chặt chẽ xây dựng với bảo vệ, xây dựng đất nước vững mạnh về mọi mặt nhằm tạo sức mạnh răn đe, ngăn chặn mọi ý đồ, hành động xâm lược và âm mưu chống phá của các thế lực thù địch. Về thời gian, chủ động phòng ngừa, bảo vệ đất nước ngay từ lúc thời bình, khi đất nước chưa có chiến tranh, xung đột. Về không gian, bảo vệ cả bên trong và bên ngoài lãnh thổ, bảo vệ từ xa. Về phương thức, vừa tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh, vừa đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, phát triển toàn diện các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, làm cho đất nước ngày càng vững mạnh.
.jpg)
Về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân gắn với xây dựng thế trận lòng dân vững chắc, nhận thức về vấn đề này cũng được bổ sung, hoàn thiện trên nhiều phương diện. Nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân là sức mạnh quốc phòng, an ninh của đất nước được xây dựng trên nền tảng chính trị, tinh thần, nhân lực, vật lực mang tính chất toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự cường và từng bước hiện đại. Thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân là việc tổ chức, bố trí lực lượng bảo đảm quốc phòng, an ninh và các nguồn lực cần thiết để chủ động bảo đảm quốc phòng, an ninh. Thế trận lòng dân là sự tổng hòa của tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, tinh thần đoàn kết, khát vọng độc lập, tự do, ý chí đấu tranh kiên cường, bất khuất của cả dân tộc được hội tụ, kết tinh, phát huy dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, trở thành nền tảng tư tưởng, chính trị vững chắc, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng vững mạnh, xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đến năm 2030 bảo đảm tiêu chuẩn hiện đại, vững mạnh về chính trị tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Bên cạnh lực lượng chính quy, Đảng chủ trương xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, lực lượng dân quân, tự vệ vững mạnh, rộng khắp; xây dựng lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở hoạt động hiệu quả cả ở địa bàn nông thôn và đô thị.
Về kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh và đối ngoại, Đảng chỉ rõ vai trò, vị trí của từng lĩnh vực và mối quan hệ biện chứng giữa các lĩnh vực này. Trong đó, phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm, củng cố quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên; mở rộng đối ngoại để tranh thủ ngoại lực phục vụ mục tiêu xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Do đó, không được coi nhẹ bất cứ lĩnh vực nào. Trong quá trình chỉ đạo, điều hành, phải kết hợp chặt chẽ các lĩnh vực này ở mọi cấp độ, cả vĩ mô và vi mô trong mỗi địa bàn, khu vực cũng như trên phạm vi cả nước.
.jpg)
Kết quả nhận thức lý luận trên đây đã cung cấp luận cứ khoa học vững chắc giúp cho Đảng ta ban hành chủ trương, đường lối về bảo vệ Tổ quốc trong 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước. Trong đó, ngoài nghị quyết tại các kỳ đại hội và các kỳ họp Ban Chấp hành Trung ương, kỳ họp Bộ Chính trị, Đảng ta còn ban hành các chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Chủ trương, đường lối của Đảng đã được Nhà nước ta kịp thời thể chế hóa thành chính sách, pháp luật về bảo vệ Tổ quốc. Quan điểm, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước đã được cả hệ thống chính trị và toàn xã hội quán triệt, triển khai thực hiện trong thực tiễn và đạt được thành tựu to lớn. Trong 40 năm qua, “thành tựu cơ bản, bao trùm là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội” (4).
Thế trận lòng dân là sự tổng hòa của tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, tinh thần đoàn kết, khát vọng độc lập, tự do, ý chí đấu tranh kiên cường, bất khuất của cả dân tộc được hội tụ, kết tinh, phát huy dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, trở thành nền tảng tư tưởng, chính trị vững chắc, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả nêu trên, trong 40 năm qua, lý luận của Đảng ta về bảo vệ Tổ quốc vẫn còn không ít hạn chế. Trong đó, đáng chú ý là “nhận thức lý luận về bảo vệ Tổ quốc và sự lãnh đạo của Đảng đối với quốc phòng, an ninh và các lực lượng vũ trang chưa thật sự hoàn chỉnh, còn có cách hiểu khác nhau. Còn những hạn chế trong nhận thức lý luận về bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, kế sách giữ nước khi nước chưa nguy. Nhận thức lý luận về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân gắn với thế trận lòng dân chưa đầy đủ. Nội dung, tính chất, nhiệm vụ, mối quan hệ của các tổ chức, lực lượng trong điều kiện đất nước thời bình và thời chiến chưa được xác định rõ” (5).
.jpg)
Những hạn chế trên đây do nhiều nguyên nhân. Trước hết, về nguyên nhân khách quan, do bảo vệ Tổ quốc là một lĩnh vực rộng lớn cả về lý luận và thực tiễn, liên quan đến nhiều lĩnh vực khác như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và liên quan đến nhiệm vụ của nhiều ban, bộ, ngành và địa phương. Lĩnh vực bảo vệ Tổ quốc chịu tác động bởi nhiều yếu tố trong nước và quốc tế. Do đó, việc tổ chức nghiên cứu, nhận thức một cách đầy đủ, toàn diện, kịp thời về lĩnh vực này là một nhiệm vụ rất khó khăn. Về nguyên nhân chủ quan, một bộ phận cán bộ làm công tác nghiên cứu, tuyên truyền, phổ biến và vận dụng lý luận còn hạn chế. Một số cán bộ còn coi nhẹ công tác nghiên cứu lý luận. Công tác phối hợp giữa các ban, bộ, ngành và địa phương trong công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn còn hạn chế. Công tác hơp tác quốc tế về nghiên cứu lý luận bảo vệ Tổ quốc triển khai chưa thường xuyên và hiệu quả chưa cao.
2. Hiện nay, đất nước ta chuẩn bị bước vào kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. Tình hình thế giới và trong nước đang mở ra nhiều cơ hội to lớn nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức gay gắt. Trên phạm vi toàn cầu, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng vẫn đứng trước nhiều trở ngại, thách thức. Xu thế toàn cầu hóa và sự bùng nổ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư dẫn tới sự biến đổi mạnh mẽ của lực lượng sản xuất. Các nước lớn ngày càng gia tăng cạnh tranh chiến lược và liên kết, tạo ảnh hưởng; cục diện “đa cực, đa trung tâm, đa tầng nấc” định hình rõ nét hơn.
Những vấn đề an ninh phi truyền thống tiếp tục diễn biến phức tạp. Ở trong nước, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN sẽ ngày càng phát triển; độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và lợi ích quốc gia - dân tộc sẽ tiếp tục được bảo vệ vững chắc. Tuy nhiên, tình hình thế giới và khu vực thay đổi nhanh chóng, phức tạp, khó lường sẽ có tác động đến nước ta gây nhiều khó khăn, thách thức. ASEAN đứng trước nguy cơ phân hóa nội bộ và suy giảm vai trò đặt ra cho nước ta những vấn đề mới trong ứng xử với các mối quan hệ. Các thế lực thù địch từ bên ngoài tiếp tục câu kết với các đối tượng phản động, cơ hội chính trị ở trong nước thực hiện âm mưu chống phá Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta. Các vấn đề về chủ quyền biển, đảo, về an ninh mạng tiếp tục diễn biến phức tạp, đe dọa ANQG và trật tự, an toàn xã hội.

Để tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được, khắc phục những hạn chế trong lý luận của Đảng ta về bảo vệ Tổ quốc đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong kỷ nguyên mới, theo quan điểm của tôi, trong thời gian tới, các ban, bộ, ngành và địa phương cần chú ý thực hiện tốt những nhiệm vụ sau đây:
Một là, trên cơ sở các bài học kinh nghiệm rút ra từ tổng kết 40 năm đổi mới đất nước và 10 năm thực hiện Nghị quyết số 37-NQ/TW, ngày 09/10/2014 của Bộ Chính trị về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030, đề nghị Hội đồng Lý luận Trung ương tiếp tục triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp được đề ra trong Nghị quyết trên và các nghị quyết có liên quan. Theo đó, Tiểu ban Quốc phòng, An ninh, Đối ngoại trực thuộc Hội đồng chủ động tham mưu với Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị các giải pháp công tác nghiên cứu lý luận trong toàn Đảng và hệ thống chính trị. Cần có sự chuẩn bị để ngay sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV, Hội đồng Lý luận Trung ương nhiệm kỳ mới khẩn trương kiện toàn tổ chức và ban hành kế hoạch hoạt động trong toàn nhiệm kỳ. Đồng thời, đổi mới cơ chế nghiên cứu lý luận phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ và đặc điểm trong tình hình mới nhằm huy động tiềm năng của cả hệ thống chính trị vào công tác nghiên cứu, phát triển lý luận.
Hai là, cùng với việc kiện toàn tổ chức bộ máy theo chủ trương của Đảng, các ban, bộ, ngành ở Trung ương cần coi trọng việc tổ chức các cơ quan nghiên cứu lý luận theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả. Trong đó, các cơ quan nghiên cứu khoa học, lý luận hàng đầu của Đảng và Nhà nước như: Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương, Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương, Tạp chí Cộng sản, Viện Hàn lâm khoa học xã hội và các trường đại học cần tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ làm công tác nghiên cứu lý luận tiếp tục phát huy vai trò của mình. Phối hợp với các cơ quan nghiên cứu của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và Bộ Ngoại giao tổ chức nghiên cứu các vấn đề lý luận về bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, cần tập trung vào các vấn đề mới, liên quan đến chủ quyền quốc gia trên không gian mạng và tội phạm sử dụng công nghệ cao xâm phạm quốc phòng, an ninh, nhất là an ninh kinh tế, an ninh thông tin và an ninh văn hóa, tư tưởng.
Ba là, cấp ủy và chính quyền các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan nghiên cứu lý luận ở Trung ương triển khai vận dụng lý luận vào thực tiễn; đồng thời, tổ chức tổng kết thực tiễn, đúc kết kinh nghiệm về việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trên từng địa bàn. Trong đó, cần tập trung vào các vấn đề bảo vệ biên giới trên bộ và trên biển; vấn đề dân tộc và tôn giáo; vấn đề kết hợp chặt chẽ giữa bảo đảm quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; vấn đề xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân kết hợp với xây dựng thế trận lòng dân tại các địa bàn cơ sở, địa bàn vùng sâu, vùng xa,vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Bốn là, Bộ Ngoại giao phối hợp với các ban, bộ, ngành triển khai các chương trình hợp tác quốc tế trong nghiên cứu lý luận, trao đổi kinh nghiệm với các đối tác quốc tế về các vấn đề bảo đảm quốc phòng, an ninh, tăng cường đối ngoại. Trong đó, trước hết cần đẩy mạnh hợp tác với các đối tác chiến lược toàn diện, các quốc gia láng giềng có chung đường biên giới trên bộ và trên biển, các tổ chức quốc tế về phòng, chống tội phạm và phòng, chống các vấn đề an ninh phi truyền thống, nhất là các vấn đề về tội phạm sử dụng công nghệ cao, sử dụng không gian mạng, tội phạm buôn bán ma túy, tội phạm mua bán người xuyên quốc gia và tội phạm khủng bố.
Năm là, đối với Bộ Công an, trên cơ sở kết quả Hội nghị sơ kết 3 năm thực hiện Chương trình phối hợp công tác giữa Bộ Công an và Hội đồng Lý luận Trung ương giai đoạn 2021 - 2026, Bộ tiếp tục phối với Hội đồng thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ đề ra trong Chương trình này, đồng thời chuẩn bị cho chương trình phối hợp các năm tiếp theo. Tiếp tục chỉ đạo Công an các đơn vị, địa phương tổ chức thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 10-ĐU/CA của Đảng ủy Công an Trung ương và Chỉ thị số 12/CT-BCA của Bộ Công an về đẩy mạnh công tác lý luận CAND đến năm 2030, định hướng đến năm 2035. Hội đồng Lý luận Bộ Công an, các học viện, trường CAND và các cơ quan nghiên cứu khoa học, lý luận của Bộ Công an chủ động phối hợp chặt chẽ với các cơ quan nghiên cứu lý luận của Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, các cơ quan chức năng ban, bộ, ngành và địa phương nhằm đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về quốc phòng, an ninh và xây dựng đội ngũ cán bộ lý luận không ngừng lớn mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong hình mới.
(1): Nguyễn Ái Quốc, Đường cách mệnh, trang bìa, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2017.
(2): Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Tập 1, trang 144, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021.
(3): Hiện nay, lý luận về bảo vệ Tổ quốc được tiếp cận theo nhiều cách khác nhau. Bài viết này trình bày lý luận về bảo vệ Tổ quốc theo quan điểm của Đảng, nên các nội dung này được dựa trên cơ sở các tài liệu của Đảng, trong đó chủ yếu là "Báo cáo Tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công cuộc đổi mới theo định hướng XHCN trong 40 năm qua ở Việt Nam" (dự thảo của Ban Chỉ đạo Tổng kết thuộc Ban Chấp hành Trung ương tháng 11/2024).
(4): Đảng Cộng sản Việt Nam, Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng (tài liệu sử dụng tại đại hội chi bộ, đảng bộ cơ sở), NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2024, tr.84.
(5): Ban Chỉ đạo Tổng kết thuộc Ban Chấp hành TƯ. Dự thảo, Báo cáo Tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công cuộc đổi mới theo định hướng XHCN trong 40 năm qua ở Việt Nam , Hà Nội, tháng 11/2024, tr.96.